Con học đều các môn hay học giỏi một nhóm môn sẽ tốt hơn?
Một chị phụ huynh inbox hỏi tôi có cách nào để khiến con chị học đều các môn hay không? Vì con chị rất lười học, chỉ có hứng thú với các môn năng khiếu là hội họa và âm nhạc.
Tôi nói với chị, đó không hẳn là vấn đề lớn lắm. Việc một đứa trẻ ngay từ bé đã bộc lộ năng khiếu nổi trội, với tôi đó chính là may mắn trời ban. Bởi không phải ai cũng có năng khiếu. Năng khiếu sẽ giúp họ biết mình muốn làm gì và phải đi theo hướng nào. Năng khiếu sẽ cho họ một cuộc sống đủ đầy trong tương lai nếu biết cách phát triển.
Tuy nhiên, đó chỉ là suy nghĩ của cá nhân tôi, còn hệ thống giáo dục của chúng ta hiện nay, với phương pháp và chương trình học chưa thực sự phù hợp đang là một bước cản lớn đối với việc bồi dưỡng nhân tài. Nhiều người khi còn nhỏ, bộc lộ điểm mạnh rất rõ ràng, nhưng do quá trình học tập, phải gồng mình nhồi nhét lượng kiến thức khổng lồ của rất nhiều môn học, cố học sao cho đều các môn mà điểm mạnh chìm dần. Cho tới một ngày, họ không còn biết mình mạnh ở đâu và phải chọn con đường nào mới đúng. Mỗi thứ biết một ít, cuối cùng chẳng biết giỏi nhất thứ gì. Chọn bừa một nghề theo xu thế phát triển của xã hội thì chỉ làm được một thời gian lại chán vì không có niềm yêu thích và đam mê với nó. Đến tuổi trung niên lại loay hoay đi tìm mục đích sống.
Phương pháp giáo dục như thế nào là phù hợp thì lại phải căn cứ vào bối cảnh thời đại và mục đích giáo dục. Thời phong kiến, mục đích của học hành là để đỗ đạt ra làm quan, để tìm ra những cá nhân tiêu biểu. Mô hình giáo dục thời đó là theo hình chóp, tức là loại trừ dần, cuối cùng giữ lại những nhân tố tinh anh nhất. Bởi vậy, những kỳ thi vượt rào và điểm số với họ là vô cùng quan trọng. Thời nay, mục đích của học hành không còn là để ra làm quan nữa. Mọi người đều bình đẳng như nhau trong việc tiếp cận với tri thức, học hành là để gia tăng vốn hiểu biết, để kiếm một nghề nghiệp, một con đường phù hợp với bản thân. Xa hơn, học hành để nâng cao dân trí, thay đổi tư duy nhận thức của cả một thế hệ, một dân tộc. Mà nghề nghiệp thì có hàng trăm ngàn nghề nghiệp, cơ hội mở ra với tất cả mọi người. Chúng ta không thể đánh giá học sinh dựa trên điểm số, cũng không nhất thiết bắt chúng phải học đều tất cả các môn học. Bởi mỗi con người có một thế mạnh riêng, không ai giống ai cả, người hát hay nhưng lại kém toán, có vấn đề gì đâu khi tương lai họ muốn trở thành ca sĩ. Người giỏi toán, lý, hóa nhưng kém địa, cũng chẳng sao cả khi tương lai họ muốn trở thành một nhà toán học. Học không nổi môn Văn nhưng lại có năng khiếu vẽ truyền thần… họ hoàn toàn có thể trở thành họa sĩ. Học giỏi sử nhưng lại liệt môn sinh họ vẫn có thể là một nhà nghiên cứu sử học trong tương lai.
Việc đánh trượt một em học sinh chỉ vì em ấy bị liệt điểm một môn học nào đó vốn đã không còn tính hợp lý. Trù dập học sinh chỉ vì em ấy hát hay, múa đẹp nhưng học kém cũng là cách hành xử phi giáo dục, kém văn minh.
Một nghề cho chín còn hơn chín nghề. Tôi nghĩ, cách tốt nhất để đào tạo nên nhân tài cho đất nước là để học sinh được học (kỹ năng Sinh tồn) + (Lễ nghĩa) + (Môn học thế mạnh) + (Công nghệ thông tin) và (ngoại ngữ).
-Học cách giữ tính mạng và rèn luyện sức khỏe gọi chung lại là bộ môn SINH TỒN. Trong bộ môn này, học sinh cần được học các kỹ năng để sống sót như bơi lội, tự vệ, xử trí khi gặp hỏa hoạn, khi bị lạc trong rừng, các cách sơ cứu khi gặp tai nạn, chọn một bộ môn thể dục để rèn luyện sức khỏe như chạy bền, cầu lông, bóng chuyền, bóng đá, bóng rổ..v..v. Học về tính dục và tình dục an toàn. Học về dinh dưỡng để có thể chất khỏe mạnh. Mục tiêu mà môn học này hướng tới là để học sinh ý thức được tầm quan trọng của tính mạng và rèn luyện sức khỏe. Thành tựu của môn học này mang lại có thể cải thiện dáng dấp của người Việt trong tương lai, giảm số vụ tự tử, đuối nước, giảm số ca nạo phá thai.
-Bộ môn Lễ nghĩa, học sinh cần được học cách đối nhân xử thế trong từng hoàn cảnh cụ thể: đối với những người trong gia đình thì như thế nào? Đối với bạn bè ra sao? Đối với thầy cô giáo, đồng nghiệp, cấp trên thì cần cư xử thế nào? Các cách ứng xử tại nơi công cộng, cách xử lý khi nảy sinh mâu thuẫn… cách ứng xử khi tới các cơ quan hành chính nhà nước… học những lễ nghi phù hợp với từng địa điểm như khi đi tới nơi linh thiêng đền chùa thì cần làm gì, khi ra nước ngoài đi du lịch thì cần làm gì? Khi dự một buổi tiệc ở nơi sang trọng thì cách ứng xử ra sao, điệu bộ đi đứng nói năng thế nào? Khi đi du học thì cần ứng xử ra sao ở nơi xứ người… Rất nhiều thứ cần học ở bộ môn Lễ Nghĩa. Và vì những nội dung trong bộ môn này, chúng ta có thể hiểu nó gần giống với bộ môn đối ngoại, xây dựng các mối quan hệ xã hội. Việc xây dựng các mối quan hệ xã hội là vô cùng cần thiết với mỗi học sinh bước chân ra khỏi phạm vi nhà trường và gia đình.
-Môn học thế mạnh là bộ môn học sinh cảm thấy có hứng thú nhất khi học, cũng là môn chúng có kết quả tốt nhất. Bất cập trong giáo dục hiện nay là cố gắng đi ngược lại với tự nhiên, cào bằng tầm quan trọng của tất cả các môn học. Thực tế lại chứng minh nếu một học sinh không thích học một môn học nào đó thì dù cố gắng đến mấy, điểm số của môn học đó cũng không được cải thiện dù chúng dành nhiều thời gian cho môn học đó đến đâu. Cuối cùng chúng lại không có nhiều thời gian để dành cho môn học thế mạnh, thành ra môn nào cũng dở dở ương ương, không môn nào được tập trung phát triển.
Kết quả của cả một chặng đường học kéo dài tới 12 năm khi đó lại là một thế hệ những thanh niên đẽo cày giữa đường, lơ mơ không biết mình muốn gì, nên làm gì, lựa chọn nghề nghiệp gì cho phù hợp. Hướng phát triển bản thân phải được định hình ngay từ khi trẻ còn nhỏ dựa trên những thế mạnh của trẻ chứ không phải đợi tới khi 19 tuổi vào đại học mới phân rõ chuyên ngành. Thậm chí, nhiều sinh viên đến mãi khi tốt nghiệp đại học ra trường rồi vẫn không hiểu nổi mình đã đi đúng hướng chưa? Có những ông bố bà mẹ 35-40 tuổi đột ngột nghỉ công việc mình vẫn theo đuổi bao nhiêu năm để tìm lại những mong ước thuở thiếu thời. Đó chính là lỗ hổng của giáo dục. Cố đào tạo ra lứa học sinh nhang nhác giống nhau như bánh được đúc ra từ một chiếc khuôn.
Việc sinh viên ra trường đi làm trái ngành, trái nghề hoặc thất nghiệp tràn lan, không hoàn toàn là do bước chọn trường Đại học năm 18 tuổi. Mà nó bắt nguồn từ những năm tháng còn là học sinh rồi. Nếu chỉ tập trung giải bài toán tuổi 18 thì theo một lẽ tất nhiên, vấn đề gốc rễ vẫn không thể xử lý dứt điểm. Muốn thay đổi phải lột xác và thay đổi hoàn toàn hệ thống giáo dục, phương thức giáo dục cũ. Và đặc biệt, muốn phát triển rực rỡ thì bắt buộc phải thuận theo tự nhiên. Người có thế mạnh về lĩnh vực nào phải được đào tạo chuyên sâu hơn về lĩnh vực đó, phải đặt họ trong những môi trường phù hợp. Cá phải học cách bơi và săn mồi dưới môi trường nước. Tại sao lại đánh giá cá trên điểm số của môn học leo cây, hái quả? Như vậy gọi là đi ngược lại tự nhiên.
Ví dụ: Một học sinh có thế mạnh về môn văn + năng khiếu thì các môn học như lý, hóa chỉ cần dừng lại ở mức độ giải thích hiện tượng là đủ (ví dụ tại sao có mưa, tại sao có gió mùa, tại sao có cầu vồng, tại sao tồn tại lực hút trái đất…) môn toán thì chỉ cần tính toán đơn giản, tính nhanh và chính xác cộng trừ nhân chia là đạt yêu cầu, không nhất thiết phải đi sâu tính toán các dao động vật lý hay cân bằng các phương trình hóa học, giải các phương trình đại số tầng tầng lớp lớp… vì vốn dĩ việc tính toán phức tạp chỉ có ý nghĩa với những người nghiên cứu chuyên sâu, còn người bình thường thì nó không có ý nghĩa trong thực tiễn đời sống. Bạn là người rất giỏi về tạo content bán hàng, đương nhiên rồi, bạn sẽ được phụ trách mảng content, chẳng người sếp nào bắt bạn làm kế toán cả. Khi đó, môn đại số ứng dụng với bạn có lẽ chỉ là những lần dạo chợ mua rau cỏ, thịt thà. Chẳng ai đi chợ tính tiền mà phải mang phương trình đại số ra giải cả. Từ ngày tốt nghiệp cấp 3 đến nay đã 13 năm, chưa một lần nào tôi ứng dụng giải các phương trình toán học, vật lý hay hóa học vào đời sống cả. Thậm chí tôi quên béng ngay khi vừa bước chân ra khỏi cổng trường. Giờ còn không nhớ nổi tên viết tắt của các nguyên tố hóa học và hóa trị của chúng là bao nhiêu, cũng không hiểu học những thứ đó để làm gì nữa? Bởi vậy, thay vì bỏ thời gian đi sâu vào những môn học kém, hãy dành khoảng thời gian quý báu đó để bồi dưỡng những môn học thế mạnh. Thành tựu chắc chắn sẽ tốt hơn rất nhiều.
Điểm thiếu sót nữa của giáo dục là tầm thường hóa các môn học năng khiếu như vẽ, hát, nhạc, võ… Khiến cho nhiều học sinh dù rất đam mê nhưng đành phải đi học ở các trung tâm bồi dưỡng năng khiếu bên ngoài nếu muốn thi vào các trường năng khiếu. Tại sao lại không phải là chúng sẽ được học một cách bài bản, nghiêm túc ngay từ khi còn nhỏ? Và học chính tại trong trường? Việc một học sinh có năng khiếu nghệ thuật, được phát hiện và đào tạo ngay tại trường khi còn nhỏ sẽ là cách để tạo nên những thiên tài nghệ thuật trong tương lai. Thêm nữa, phổ cập các môn học liên quan đến nghệ thuật sẽ giúp cho nhiều em nhỏ hoàn cảnh khó khăn có cơ hội được tiếp cận, phát hiện và bồi dưỡng tài năng. Học nghệ thuật sẽ giúp trẻ có đời sống tâm hồn phong phú và có thiên hướng yêu cái đẹp. Điều đó rất tốt cho sự phát triển chung của xã hội.
Ngay từ hồi học cấp hai, tôi đã ước mơ đến một ngôi trường mà ngay tại đó có các chuyên khoa được phân rõ ràng: ngoài các khoa như KHTN, KHXH thì còn có khoa Nghệ Thuật (Nhạc, họa, diễn xuất, sáng tác…), Khoa Thể Thao (Phân làm nhiều bộ môn )… Và vì vậy, học sinh sẽ luôn biết cách tôn trọng điểm mạnh và điểm yếu của nhau, không xảy ra tình trạng tẩy chay hay coi thường vì bạn học không giỏi những môn học chính. Chúng sẽ luôn ý thức được giá trị của bản thân, biết mình mạnh ở đâu, yếu ở đâu, biết mình cần làm gì, đi theo hướng nào chứ không cố gắng cân bằng cả chục môn học rồi lơ ngơ không biết đời sẽ đi về đâu. Chưa kể đến, việc cho học sinh được học những môn thế mạnh cũng là cách để cải thiện mối quan hệ thầy trò. Thực tế cho thấy, các thầy cô giáo thường có ấn tượng không tốt với những học sinh học kém môn học mình phụ trách giảng dạy, học sinh thì thường sợ hãi, e dè các thầy cô dạy môn học mình kém. Tâm lý này khiến họ luôn trong trạng thái đối phó nhau. Đôi khi dẫn tới những sự việc đáng tiếc.
Việc phân ban đã tồn tại từ khá lâu trong chương trình giáo dục phổ thông nhưng chưa thực sự rõ ràng. Và dường như các chuyên gia giáo dục của chúng ta vẫn loay hoay không biết nên thiết kế chương trình học thế nào cho phù hợp. Thành ra dù là có phân ban đấy nhưng chương trình học chẳng khác nhau là mấy. Chưa kể đến, cải cách giáo dục còn kéo theo rất nhiều sự thay đổi trong việc đào tạo giáo viên, cơ sở vật chất, viết lại sách giáo khoa cho học sinh, giáo trình cho giáo viên nên tính cho đến nay, các cải cách trong chương trình học của học sinh mới chỉ dừng lại ở những điều chỉnh nho nhỏ, chưa có bước phát triển nhảy vọt.
Thời tôi còn học cấp hai là thời điểm phụ huynh và cả giáo viên thời đó rất chuộng các môn học khoa học tự nhiên toán, lý, hóa. Vì vậy, hầu hết những học sinh học giỏi những môn học này đều rất được yêu mến. Ngược lại, các học sinh khác dù là học tốt văn, sử, địa, có năng khiếu nghệ thuật nổi trội hay là giỏi thể dục thể thao cũng đều cảm thấy rất tự ti về bản thân mình. Thực tế, để học giỏi đều được tất cả các môn là điều rất khó, chỉ có số ít người làm được điều đó. Bởi nó liên quan tới sự phát triển của não bộ, sự cân bằng giữa hai bán cầu não và chỉ số IQ. Tất nhiên, một người thực sự có trí thông minh thiên bẩm thì họ tiếp cận với bộ môn nào cũng là điều hết sức dễ dàng. Tuy nhiên, thực tế đời sống không cần thiết họ phải giỏi tới vậy. Chỉ cần giỏi trong lĩnh vực chuyên môn của mình, thiên tài trong thế mạnh của mình đã là quá đủ. Bởi, dù bạn có giỏi đến đâu thì bạn cũng không thể làm một lúc chín nghề được, đúng không nào?
Tất nhiên, khi học giỏi một nhóm môn học, không có nghĩa là chúng ta bỏ qua hoàn toàn những môn còn lại mà chỉ cần rút gọn lượng kiến thức không cần thiết để tránh tạo áp lực cho học sinh. Cố nhồi nhét chẳng khiến chúng giỏi hơn mà chỉ khiến chúng thêm chán nản với việc học, nảy sinh thêm nhiều tiêu cực trong thi cử.
(Bài viết mang góc nhìn cá nhân, mọi ý kiến đóng góp tranh luận xin hãy văn minh lịch sự, mình xin được ghi nhận)
Nhận xét
Đăng nhận xét