Cơn sốt đất và những chiêu trò “độc” khó ai nghĩ đến
Cơn sốt đất ở một số tỉnh, thành trên cả nước diễn ra hồi đầu năm, nhiều nhà đầu tư kiếm bộn tiền từ những cú “lướt sóng” nhưng cũng không ít cá nhân vướng phải không ít rắc rối với pháp luật từ những bản hợp đồng “dở khóc, dở cười”.
Vì tiền, họ hàng cũng
“bán”
Những ngày cuối năm
2021, cơn sốt đất ở Lâm Đồng, Phú Yên, Khánh Hòa bắt đầu manh nha và bùng nổ mạnh
trong vòng 4 tháng đầu năm 2022. Các vùng nông thôn, buôn làng cho tới ruộng rẫy,
“view” sông suối, “view” cánh đồng… đều được cho lên bảng giá với sức mua bán
chóng mặt.
Trong cơn sốt đất này,
bên cạnh câu chuyện những nhà đầu cơ “lướt sóng” dễ dàng kiếm tiền tỉ thì một số
cá nhân làm môi giới, thậm chí người dân có tiền cũng nhanh chóng nắm lấy cơ hội
kiếm tiền, thậm chí bằng các chiêu trò, mánh tinh vi để “cầm đằng chuôi” với cả
người bán.
Tỉnh Lâm Đồng từ giữa
tháng 7/2022 dần thưa cảnh hạ đồi, phân lô. Tình trạng "nhà nhà, người người
làm cò đất" cũng không còn. Một số ý kiến cho rằng, Lâm Đồng đã hết thời sốt
đất ảo nhưng hệ luỵ lại khiến nhiều người lao đao.
Đầu năm 2022, do cần tiền
đầu tư kinh doanh nên chị Nguyễn Thị Hoàng Nh. và em gái quyết định rao bán hai
lô đất tại Thạnh Mỹ (huyện Đơn Dương, Lâm Đồng).
Ngay sau khi đăng tải
thông tin bán đất, rất nhiều khách hàng đã tìm đến hỏi mua, nhưng chị Nh. và em
gái sau đó quyết định bán lại cho người họ hàng với số tiền bán rẻ hơn 100 triệu
đồng/lô so với giá chốt của một khách hàng ở Hà Nội.
Mọi việc sẽ không có gì
nếu cuộc trao đổi mua bán sau đó diễn ra theo đúng thông lệ. Theo lời chị Nh.,
bên mua sau đó lấy lý do dù là họ hàng nhưng ít gặp mặt, ít tiếp xúc với 2 chị
em nên đưa đề nghị bên mua sẽ soạn thảo hợp đồng đặt cọc. Đồng thời, bên mua
cũng yêu cầu người nhận cọc sẽ là bố ruột của chị là ông Nguyễn Xuân Đ.
Để người mua được yên
tâm nên chị Nh. và em gái vui vẻ đồng ý để cho bố thực hiện giao dịch nhận cọc
với số tiền là 1 tỷ đồng và trong giấy đặt cọc cũng thể hiện rõ “hai lô đất của
các con tôi”; “Ông N.X.Đ bố của hai con trên có nhận cọc của bà Lê Thị Tuyết
Nh.”
Việc ký kết giấy nhận cọc
và chuyển tiền đặt cọc sau đó được diễn ra thuận lợi, hẹn 10 ngày sau phía chị
Nh. sẽ công chứng chuyển quyền sử dụng đất cho người bà con kia . Chị Nh. và em
gái sau đó dùng tiền để đầu tư kinh doanh.
Gần đến thời điểm hai
bên tiến hành bước tiếp theo là chuyển quyền sử dụng đất thì người bà con cho rằng
phía chị Nh. bán giá cao, yêu cầu “giảm giá mỗi lô thêm 200-300 triệu đồng” và cố tình trì hoãn việc thanh toán.
Yêu cầu giảm giá không
được chấp nhận, bên mua “quay đầu xe” yêu cầu phía chị Nh. hoàn trả lại 1 tỷ đã
nhận cọc với lý do người nhận cọc là bố chị Nh. là không hợp lệ. Đồng thời, bên
cọc có thông báo sẽ khởi kiện nếu gia đình chị Nh. không trả lại 1 tỷ đồng tiền
cọc.
Sau thời gian đàm phán
bất thành, gia đình chị Nh. bất ngờ nhận được thông báo 2 lô đất của gia đình
chị bị phong tỏa vì liên quan đến vụ án:
“Yêu cầu hủy hợp đồng đặt cọc chuyển nhượng quyền sử dụng đất và đòi lại tài sản”.
Hiện tại, chị Nh. và các thành viên trong gia đình rất mệt mỏi vì vướng vào những
rắc rối pháp lý, vừa mất thời gian theo tòa lại bị ảnh hưởng rất lớn về kinh tế
kèm theo.
Theo luật sư Nguyễn Quyết
Quyền, thuộc Đoàn luật sư TP. HCM: Tại thời
điểm lập hợp đồng đặt cọc, bên mua biết rõ chủ sử dụng đất không phải là ông Đ,
nhưng có lẽ vì sợ các con của ông Đ đổi ý nên mới xác lập hợp đồng đặt cọc với
ông Đ và cũng đã ràng buộc đầy đủ các điều khoản theo quy định của pháp luật.
Căn
cứ theo Điều 328 Bộ luật dân sự 2015, ghi rõ :
1.
Đặt cọc là việc một bên (sau đây gọi là bên đặt cọc) giao cho bên kia một khoản
tiền…trong một thời hạn để đảm bảo giao kết hoặc thực hiện hợp đồng”.
2.
Trường hợp hợp đồng được
giao kết, thực hiện
thì tài sản đặt cọc trả lại cho
bên đặt cọc hoặc
được trừ để thực hiện
nghĩa vụ trả tiền;
Nếu bên
đặt cọc từ chối việc
giao kết, thực hiện hợp đồng thì
tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt cọc.
Theo
nội dung trao đổi giữa hai bên thì, bên bán trước sau vẫn thể hiện rõ quan điểm
là muốn ký hợp đồng chuyển nhượng thực hiện đúng nội dung thỏa thuận trong Giấy
đặt cọc, tuy nhiên phía bên mua đã không thực hiện đúng thỏa thuận, từ chối nhận
chuyển nhượng. Vì vậy, bên mua là bên vi phạm hợp đồng và phải chịu mất cọc là
phù hợp với quy định của pháp luật nhằm đảm bảo ổn định các giao dịch dân sự.
Không phải trường hợp cá
biệt
Tương
tự như trường hợp của gia đình chị Nh., anh Nguyễn Trọng H. (trú tại TP Đà Lạt,
Lâm Đồng) cũng từng “điêu đứng” vì bị “cho vào tròng” của một đối tượng đầu tư
bất động sản “lướt sóng”.
Anh
H. cho biết, khoảng tháng 4/2022, anh rao bán mảnh đất tại Đà Lạt và có một đối
tượng đến đặt cọc 100 triệu và hẹn 20 ngày sau sẽ có mặt để tiến hành những
giao dịch tiếp theo.
Đến
ngày hẹn, người mua tới gặp vợ chồng anh xin nới thêm 10 ngày vì… chưa đủ tiền.
Anh
H. đồng ý…
10
ngày sau, người mua lại đến tìm anh, năn nỉ xin lại tiền cọc với lý do…gia đình
có biến cố nên tiền mua đất phải bỏ ra lo việc, hẹn anh H. khi nào gom đủ tiền,
đất của anh vẫn chưa bán thì sẽ đến…giao dịch lại.
Trước đó, Tòa án Nhân
dân Lâm Đồng cũng từng xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý ngày 29/10/2020
việc: “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất”
với cùng nội dung như trường hợp nhà chị Nh nói trên.
Theo đó, qua bạn bè ông
C và bà B được biết bà Hồ Thị V muốn bán nhà và đất tại Đà Lạt nên ông C có
liên hệ với bà V. và được bà V. cho xem Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số cấp cho bốn người gồm ông Nguyễn Đức
T, bà Hồ Thị V, ông Hồ Minh D và bà Lâm Thị Nguyệt H. Bà V khẳng định đã được
các đồng sở hữu khác ủy quyền cho bà chuyển nhượng tài sản nêu trên và sẽ cung
cấp cho ông C hợp đồng ủy quyền sau.
Sau khi thỏa thuận, các
bên thống nhất giá mua bán nhà và đất nêu trên là 54 tỷ đồng.
Bà V đã viết giấy nhận
cọc, nội dung thỏa thuận về tiền cọc, thời hạn thanh toán từng đợt, quyền và
nghĩa vụ của các bên, sau đó ông C đã cọc cho bà V 1 tỷ đồng.
Và theo giấy nhận cọc
thì 3 tháng sau, ông C phải thanh toán số tiền còn lại của hợp đồng chuyển nhượng
nhà đất là 33 tỷ đồng cho bà V.
Sau khi nhận đủ tiền bà
và các đồng sỡ hữu khác sẽ ra công chứng để Hợp đồng chuyển nhượng cho ông C
theo đúng nội dung giấy nhận cọc mà hai bên đã cam kết.
Thực hiện Giấy nhận cọc,
vợ chồng ông C, bà B chuyển vào tài khoản cho bà V sau đó tổng 21 tỷ đồng.
Sau khi giao nhận tiền,
lấy lý do bà V không cung cấp được cho vợ chồng ông C, bà B hợp đồng ủy quyền của
các đồng sở hữu còn lại, ông C bà B cho rằng bà V có hành vi lừa dối nên Giấy
nhận cọc do bà V tự quyết định việc mua bán là vô hiệu.
Vợ chồng ông C bà B còn
có đơn khởi kiện yêu cầu: Hủy giấy nhận cọc giữa bà Hồ Thị V ông Tạ Duy Quốc C
do bị vô hiệu và buộc bà Hồ Thị V trả lại cho vợ chồng ông C, bà B số tiền 21 tỷ
đồng đã nhận
Tại phiên sơ thẩm, bà V
khẳng định, việc ông C khởi kiện yêu cầu Hủy Giấy nhận cọc; buộc bà trả lại số
tiền đã nhận cọc là 21 tỷ đồng và chấm dứt việc chuyển nhượng nhà và đất tại Đà
Lạt thì bà không đồng ý ,vì bà và các đồng sở hữu khác vẫn thiện chí muốn bán
căn nhà nêu trên cho ông C, bên bán không vi phạm bất cứ nghĩa vụ nào mà các
bên đã thỏa thuận theo giấy nhận cọc.
Bà đề nghị ông C thực
hiện nghĩa vụ thanh toán số tiền còn lại là 33 tỷ đồng và ra công chứng hợp đồng
mua bán nhà theo như thỏa thuận tại Giấy nhận cọc.
Phiên sơ thẩm sau đó đã
chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông C, bà B để buộc bà V trả lại cho ông C, bà
B số tiền 21 tỷ đồng.
Không đồng ý với bản án
của tòa sơ thẩm, bà V và các đồng sở hữu đã kháng án.
Đơn kháng cáo của các
đương sự yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ
yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tòa án cấp phúc thẩm
sau đó đã quyết định: Chấp nhận toàn bộ
kháng cáo của bị đơn và chấp nhận toàn bộ kháng cáo của người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc
yêu cầu bị đơn trả lại số tiền nhận đặt cọc 21 tỷ đồng.
Sửa bản án sơ thẩm Xử:
Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu tuyên bố hợp đồng
đặt cọc mua bán nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu.
Nhận định của Tòa án,
có căn cứ xác định toàn bộ số tiền 21 tỷ đồng mà vợ chồng ông C, bà B chuyển
cho vợ chồng bà V, ông T đều là tiền đặt cọc để mua nhà đất tại thành phố Đà Lạt
.
Việc các bên giao kết hợp
đồng đặt cọc chính là căn cứ để xác lập hợp đồng theo quy định và các bên cam kết
trong giấy nhận cọc thì ông C sẽ thanh toán số tiền còn lại 33 tỷ đồng thì các
bên sẽ ra văn phòng công chứng lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất
theo quy định của pháp luật; Nhưng chưa đến ngày hai bên thỏa thuận ký kết hợp
đồng, ông C, bà B đã khởi kiện “Tranh chấp hợp đồng đặt cọc” với bà V là trái với
ý chí tự nguyện thỏa thuận ban đầu giữa các bên.
Mặt khác, tại phiên
phúc thẩm, vợ chồng ông D, bà H xác nhận sau mỗi lần bà V nhận tiền đặt cọc thì
bà V đều thông báo và chuyển tiền vào tài khoản của ông Hồ Đức D tại ngân hàng;
hiện nay vợ chồng ông D, bà H cũng như vợ chồng bà V, ông T vẫn yêu cầu vợ chồng
ông C, bà B thanh toán số tiền còn lại 33 tỷ đồng và tiến hành hợp đồng chuyển
nhượng nhà đất theo quy định của pháp luật.
Hợp đồng đặt cọc là để
bảo đảm giao kết hoặc thực hiện hợp đồng không quy định bắt buộc phải thực hiện
việc công chứng đối với hợp đồng đặt cọc. Do đó, các bên phải thực hiện đúng
cam kết đã ký kết tại giấy nhận cọc nhưng vợ chồng ông C, bà B không đồng ý tiếp
tục nhận chuyển nhượng nhà đất là lỗi
hoàn toàn thuộc về vợ chồng ông C, bà B nên vợ chồng ông C, bà B phải chịu mất
số tiền đặt cọc 21 tỷ đồng.
“Ai đi mua đất mà không muốn giao dịch nhanh chóng đâu, người ta phải thực
sự khó khăn nên mới xin hoãn chuyển quyền rồi lấy lại tiền cọc. Tôi đã nghĩ thế.
Vậy nhưng sau đó, thấy một số bạn bè tôi cũng gặp phải tình trạng tương tự vậy
thì tôi mới hiểu ra rằng, đó là “chiêu trò” của dân cò đất lướt sóng”.
Theo anh H., nhiều cò đất vì vốn nhỏ nên nghĩ ra chiêu sẽ “găm” đất của
người bán bằng cách đặt cọc với số tiền nhỏ, sau đó đi tìm khách, nếu thuận lợi
thì sẽ có lời lớn, nếu không tìm được khách sẽ dùng “khổ nhục kế” hoặc chiêu
trò đề lấy lại tiền cọc.
GIA BẢO
Nhận xét
Đăng nhận xét